Trang chủ » SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM » BIỆN PHÁP: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP CHO HỌC SINH QUA HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1

BIỆN PHÁP: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP CHO HỌC SINH QUA HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1

 

 UBND HUYỆN CAO LÃNH

TRƯỜNG TH PHONG MỸ 4

  CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

         Phong Mỹ, ngày 19 tháng 11 năm 2020

 

BÁO CÁO BIỆN PHÁP

GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY



A. Sơ lược lý lịch

Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân Lan, Chức vụ: Giáo viên dạy lớp Một/1

Đơn vị: Trường Tiểu học Phong Mỹ 4

Tên biện pháp:

Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh qua Hoạt động mở rộng trong dạy học Tiếng Việt 1

B. Nội dung

I. Thực trạng và nguyên nhân

1. Thực trạng

Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy Hoạt động mở rộng trong dạy học Tiếng Việt 1 là một nội dung cần thiết, có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển ngôn ngữ cho học sinh, là tiền đề cho việc dạy - học môn Tập làm văn sau này.

Bản thân cũng xác định đây là một phần quan trọng trong phân môn Học vần và Tập đọc lớp 1. Song thời gian dành cho nội dung này còn hạn chế (chỉ khoảng 10 phút cuối trong tiết học) nên đôi lúc bị “bỏ qua” hoặc chỉ được tổ chức một cách sơ sài. Còn đối với học sinh, Hoạt động mở rộng trong các giờ học này thường chỉ dừng lại ở việc trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc trả lời các câu hỏi của giáo viên, rất hiếm có học sinh nào biết tự nói một số câu theo chủ đề bài học.

Khi tổ chức hoạt động dạy học phần Hoạt động mở rộng, bản thân tôi còn gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học dẫn tới giờ Hoạt động mở rộng chưa đạt hiệu quả cao.

Bảng 1. Thống kê số câu học sinh nói được trong Hoạt động mở rộng

Tổng số học sinh

Nói được

2 - 3 câu

Nói được

một câu

Chưa nói được

thành câu

26

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

3

11.5%

8

30.8%

15

57.7%

 

Như vậy, số lượng học sinh nói được từ 2 – 3 câu chỉ có 3 học sinh (chiếm 11.5 %), học sinh nói được một câu là 8 học sinh (chiếm 30.8 %), số lượng học sinh chưa nói được thành câu là 15 học sinh (chiếm đến 57.7 %).

2. Nguyên nhân

2.1. Về phía giáo viên

- Còn xem nhẹ Hoạt động mở rộng giao tiếp cho học sinh, chỉ chú trọng rèn kĩ năng đọc và viết nên trong giờ học Tiếng Việt, thời lượng dành cho Hoạt động mở rộng giao tiếp quá ít.

- Chưa quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, nói ngọng vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian.

- Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp.

- Dạy phần Hoạt động mở rộng chỉ đơn giản là gọi học sinh trả lời 2, 3 câu hỏi, chưa hướng dẫn học sinh biết liên kết các câu thành một đoạn đơn giản đúng chủ đề.

- Chưa sáng tạo, linh hoạt, chưa biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong quá trình lên lớp và điều chỉnh những nội dung cần thiết, phù hợp để phần Hoạt động trải nghiệm giao tiếp đạt kết quả tốt.

- Đồ dùng dạy học dành cho phần Hoạt động trải nghiệm còn chưa phong phú.

2.2. Về phía học sinh

- Chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực, khi trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích được là vì sao có, vì sao không ?

- Do tâm lí rụt rè nhút nhát: Học sinh lớp 1 khả năng giao tiếp, giao lưu trò chuyện với mọi người xung quanh còn rất ít. Mặt khác, do tâm lí sợ nói sai ý của giáo viên, sợ bạn bè chê cười khi nói không đúng hoặc nói ngọng nên học sinh cũng rất ít thể hiện mình, rất ít nói thậm chí đến giờ luyện nói có học sinh còn không nói được câu nào.

2.3. Về phía phụ huynh

Học sinh còn hạn chế trong việc tiếp xúc với mọi người, chưa được cha mẹ quan tâm trong cách trò chuyện giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày nên khả năng nói còn chậm.

II. Biện pháp đã thực hiện

2.1. Giúp học sinh phát triển lời nói trong giao tiếp

Giáo viên cần tạo ra những tình huống giao tiếp gần gũi sức hấp dẫn, kích thích nhu cầu nói của các em. Khi đã hoà mình vào hoàn cảnh đã nhập vai giao tiếp thì khi ấy các em sẽ thể hiện hết mình, muốn nói thực sự hết mình.

Hoàn cảnh giao tiếp trong giờ Tiếng Việt chính là điều kiện lớp học trong giờ Hoạt động mở rộng. Bao gồm: không khí lớp học, tư thế của giáo viên, hoạt động nghe của học sinh, trật tự lớp học và một số hoạt động khác có ảnh hưởng gián tiếp đến việc luyện nói của học sinh.

Bởi vì học sinh không thể nói trong hoàn cảnh lớp học ồn ào hoặc các em sẽ khó diễn đạt trước cặp mắt nghiêm khắc của giáo viên. Các em sẽ tự tin hơn, phấn khởi hơn trước sự chú ý lắng nghe của các bạn, trước ánh mắt trìu mến hoặc những lời động viên khích lệ của giáo viên.

Khi học sinh đang nói giáo viên không nên ngắt lời một cách tuỳ tiện bởi sự gián đoạn trong lời nói thường làm các em lúng túng, giáo viên chỉ nên sửa sai hoặc uốn nắn khi các em đã kết thúc phần nói của mình.

2.2. Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ và phong phú

Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để làm phương tiện giảng dạy.

Ví dụ khi dạy về chủ đề: “Cái gì?” tôi có thể chuẩn bị sẵn những vật thật đó để học sinh có thể quan sát trực tiếp tạo hứng thú cho các em. Từ đó gợi ý các em có thể lấy những đồ dùng đó làm những trò chơi dân gian trẻ em xưa vẫn chơi. Hoặc khi dạy chủ đề: “Mua gì?”, chủ đề: “Kể gì?”, chủ đề: “Cái gì? Củ gì?”,... tôi cũng tiến hành tương tự .

Hiện nay việc áp dụng công nghệ thông tin, dạy trình chiếu trên máy vừa mang lại hiệu quả cao, học sinh tập trung thích thú học, vừa giúp tôi đỡ tốn chi phí cho việc photo tranh. Các bức tranh đẹp, rõ ràng có thể tìm trên mạng. Ngoài ra, tôi có thể tìm những đoạn video clip có liên quan cho học sinh xem. Việc làm này giúp học sinh khắc sâu kiến thức, hào hứng, chủ động và tích cực tham gia vào quá trình luyện nói.

Ví dụ: đoạn video clip về sa mạc khi dạy về chủ đề “Sa mạc có gì?”, video clip về chủ đề “Đọc vè chúc Tết”

2.3. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học

2.3.1. Phương pháp dạy học cá thể hóa học sinh

Phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng tuỳ nội dung của từng bài. Tuỳ theo từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học sinh khi luyện nói, khi đặt câu hỏi để giúp các em biết cách nói cho sát nội dung  bài và  nói một cách tự nhiên, chủ động không gượng ép. Tôi phải chuẩn bị dự trù thêm một số câu hỏi cho từng đối tượng, gợi ý bằng những câu hỏi nhỏ (Khi các em lúng túng.)

Ví dụ: Khi dạy bài iu ưu, chủ đề “Mua gì?” Sách Tiếng Việt 1, tập 1 trang 77 Tôi xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho các đối tượng như sau:

+ Tranh vẽ gì? (tranh vẽ bóng, cầu đá, áo phao.) - Dành cho học sinh còn chậm.

+ Cần mua những gì? (Cần mua bóng, cầu đá, áo phao) - Dành cho học sinh còn chậm.

+ Các em thử đoán xem các vật đó dùng để làm gì? - Dành cho học sinh nổi trội.

Để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy thì giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng, nói đủ ý, diễn đạt ngắn gọn và trong quá trình luyện nói cho học sinh qua từng câu, từng bài. Phải hết sức nhã nhặn với các đối tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn trấn giúp các em có cảm giác thoải mái thì hoạt động luyện nói mới diễn ra một cách tự nhiên.

2.3.2. Phương pháp thảo luận nhóm

Tổ chức luyện nói theo hình thức nhóm, học sinh sẽ tự nói cho nhau nghe, cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ cảm xúc của mình về nội dung chủ đề. Các buổi học thảo luận nhóm bao giờ cũng rất sôi nổi. Những học sinh nhút nhát, ít phát biểu trong lớp sẽ có môi trường tham gia xây dựng bài và phát triển khả năng giao tiếp.

Ví dụ: Bài luyện nói về chủ đề: “Tôi là ai?Sách Tiếng Việt 1 tập 1 trang 83. Giáo viên chia lớp thành các nhóm.

          Câu hỏi thảo luận:

          + Hãy giới thiệu bản thân với các bạn.

          (Gợi ý: Bạn tên gì? Nhà bạn ở đâu? Bạn học lớp nào? Bạn học trường nào? Bạn thích những gì?,...).

          Từng cá nhân trình bày trong nhóm cách giới thiệu của mình, các thành viên khác nhận xét góp ý bổ sung cho bạn rồi thống nhất cách giới thiệu. Các nhóm sẽ giao lưu giới thiệu với nhau. Cuối cùng giáo viên nêu ý kiến và đánh giá tinh thần làm việc của các nhóm.

2.3.3. Phương pháp đóng vai

Phương pháp đóng vai nhằm giúp học sinh thể hiện tình huống giao tiếp bằng cách đóng vai nhân vật giao tiếp, trau dồi trí tưởng tượng, rèn kĩ năng nói trong hội thoại, biết thể hiện ngữ điệu, cử chỉ, hành động khi vào vai nhân vật. Phương pháp này thường dùng khi dạy các bài nói kiểu tình huống giao tiếp, hoặc trò chuyện, hỏi - đáp về một đề tài.

Ví dụ: Bài “Y sĩ thú y" (sách Tiếng Việt 1 tập 1, trang 65).

Giáo viên biến đổi tình huống giao tiếp như sau:

Một bạn trong vai y sĩ và một bạn trong vai thú yMời một em đóng vai y sĩ, một em đóng vai thú y. Như vậy, tình huống biến đổi chỗ: không chỉ có lời nói của y sĩ còn có cả lời nói của thú y đáp lại khi cả hai trò chuyện với nhau. Tình huống này có yêu cầu cao hơn, nhiều em được tham gia đóng vai hơn.

Sau khi học sinh đóng vai, giáo viên tổ chức cho nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm, khen ngợi những em thể hiện vai diễn tốt.

2.3.4. Phương pháp động viên khen thưởng

Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, đặt câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói. Đối với những em giao tiếp tốt tôi sẽ khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn để giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình một cách chân thành, tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên khen thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi của các em. Trong khi dạy Hoạt động mở rộng tôi thường chú ý đến rèn kĩ năng nói to, rõ tiếng, nói thành câu, đủ ý diễn đạt, câu nói giàu cảm xúc, ngữ điệu tự nhiên, chân thành.

Ví dụ: Với những em nhút nhát chưa mạnh dạn nếu các em trình bày đúng chủ đề nhưng nói còn nhỏ thì tôi có thể khen: khen em nói đủ ý, đúng chủ đề nhưng nếu em nói to hơn nữa thì sẽ rất hay. Hoặc với những em nổi trội, tự tin khi nói tôi có thể khen: khen em nói đúng chủ đề, rõ ý, to rõ ràng nhưng nếu em biết kết hợp cử chỉ, điệu bộ trong khi nói thì thật là tuyệt vời….

2.4. Tham gia hoạt động trải nghiệm 

Hoạt động trải nghiệm được tổ chức cho học sinh vào thời gian ngoài giờ lên lớp theo bài học, chủ đề, môn học... nhất định. Đây là một hoạt đng học tp nhằm củng c, trao đi, rèn luyện nâng cao vốn hiểu biết khả năng nói cho học sinh. Các hình thức hot đng trải nghiệm đa dng có thể trò ci, đóng hot cnh hoặc trao đổi ý kiến, hỏi đáp về vn đ liên quan đến nội dung chủ đề nói.

Ví dụ : Bài “ach, êch, ich" (sách Tiếng Việt 1, tập 1 trang 127) với chủ đề Hoạt động mở rộng: Đọc bìa sách

Sau khi các em đi quan sát các bìa sách được triển lãm trong lớp học (Tham gia hoạt động trải nghiệm lúc giờ ra chơi). Các em sẽ thảo luận theo nhóm:

+ Kể tên các bìa sách trong lớp học của mình (Vui trung thu, Chú cuội ngồi gốc cây đa, ...). Học sinh trình bày – Nhận xét.

Giáo viên tiếp tục hỏi và cá nhân học sinh trả lời:

+ Sách có tên là gì? (Sách nói về nội dung gì?).

+ Em sẽ làm gì để giữ gìn sách?

III. Hiệu quả và khả năng áp dụng

1. Hiệu quả

Bảng 2. Kết quả sau khi áp dụng biện pháp

 

Tổng số học sinh

Nói được

2 - 3 câu

Nói được

một câu

Chưa nói được

thành câu

26

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

22

84.6%

4

15.4%

 

 

 

Qua bảng 2 có thể thấy tỉ lệ học sinh nói được 2 - 3 câu rành mạch đã tăng lên đáng kể (đạt 84.6 %). Không có học sinh chưa nói được thành câu. Tất cả học sinh đều mạnh dạn khi giao tiếp, nói to rõ ràng, biết đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi của bạn. Như vậy, sau khi áp dụng các biện pháp trên, hiệu quả mang lại không chỉ cho học sinh trong hoạt động luyện nói mà còn giúp học sinh mạnh dạn khi giao tiếp, nói to rõ ràng ở tất cả những tiết học khác.

2. Khả năng áp dụng

Những biện pháp trong báo cáo này có thể vận dụng triển khai thực hiện ở các khối lớp 1 khác nhau trên mọi địa bàn và đạt hiệu quả tốt cho các cấp học tiếp theo.                                                                            

                                                              Phong Mỹ, ngày 19 tháng 11 năm 2020

Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị                                    Người viết

 

 

 

        Phạm Phước Nguyên                                      Nguyễn Thị Xuân Lan




Copyright © 2018 - All Rights Reserved. Design by Thiết kế web blogspot Hòa Trần